NGƯỜI CHỒNG CÓ ĐƯỢC BÁN HOẶC THẾ CHẤP PHẦN TÀI SẢN CHUNG ĐÃ LẬP DI CHÚC KHÔNG?

Chú Nguyễn Tuấn (An Lão, Hải Phòng) hỏi:

Hai vợ chồng tôi có tài sản chung là nhà và quyền sử dụng đất ở An Lão, Hải Phòng. Năm 2020,vợ chồng tôi có lập một văn bản di chúc (có công chứng) với mong muốn để lại toàn bộ tài sản trên cho con gái và con trai. Mới đây vợ tôi mất, tôi muốn bán tài sản chung của vợ chồng tôi có được không?

Luật sư trả lời:

Theo Điều 624 Bộ luật dân sự 2015 quy định như sau: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.

Trước đây, tại Điều 663 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung” đến khi Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thì không còn quy định này nữa. Mặc dù không còn quy định thì vợ chồng cũng có thể lập chung di chúc, vì di chúc thể hiện ý chí không chỉ của một cá nhân mà có thể của nhiều cá nhân khác nhau miễn sao di chúc đáp ứng đầu đủ các điều kiện quy định tại Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015.

 Điều 630. Di chúc hợp pháp

1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;

b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

…”

Trường hợp vợ chú mất năm 2020, mà di chúc được công chứng hợp pháp thì theo quy định tại Điều 611 Bộ luật dân sự 2015 về thời điểm mở thừa kế “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Do đó, kể từ thời điểm vợ chú mất thì phần di sản của vợ chú để lại đã thuộc về những người thừa kế nên chú không có quyền bán toàn bộ tài sản chung của vợ chồng.

Để bán được tài sản của mình thì chú phải làm thủ tục hủy bỏ phần di chúc đã lập chung với theo quy định tại khoản 1 Điều 640 Bộ luật Dân sự năm 2015 “Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào”.

Ngoài ra, theo Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định chú còn được hưởng một phần di sản của vợ chú để lại do chú là người không phụ thuộc vào nội dung di chúc, cụ thể:

“Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:

a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

…”

Như vậy, chú không có quyền bán toàn bộ tài sản chung của vợ chồng mà chỉ có quyền định đoạt đối với phần tài sản của chú trong khối tài sản chung và phần tài sản chú được hưởng thừa kế từ vợ mình.

Khách hàng tiêu biểu